Khái quát Phúc_tấn

Quốc chủ Hậu phi

Nguyên từ "Phúc tấn" có hai thuyết về xuất xứ. Một thuyết là từ tiếng Mông Cổ của "Fujin", có nghĩa là Phu nhân trong Hán ngữ, lại có thuyết nói từ này xuất phát từ nguyên danh Khả đôn - tước hiệu dùng để gọi vợ các Khả hãn tại các sắc dân Đột Quyết.

Thời kỳ khai quốc Hậu Kim của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, trong hậu cung của Hán vương, Chính thê của Hãn vương được gọi 「Đại Phúc tấn; 大福晉; Amba fujin」, hay còn gọi đơn giản hơn là 「Đại phi; 大妃」, có những cấp thấp hơn nữa dành cho thiếp là các 「Trắc Phúc tấn; 侧福晉; Ashani fujin」, 「Thứ Phúc tấn; 庶福晉; Buya fujin」 hay 「Tiểu Phúc tấn; 小福晉; Ajige fujin」.

Trong hậu cung từ thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích đến Hoàng Thái Cực, các Chính phi và Thứ phi trong hậu cung của Đại hãn đều gọi chung là Phúc tấn, chỉ phân chia Chính thất Phúc tấn đặc biệt triệt để. Năm Hoàng Thái Cực thành lập nhà Thanh (1636), ngoài Triết Triết được phong danh hiệu ["Quốc quân Phúc tấn"; 國君福晉; Ejen fujin] cực kỳ khác biệt, thì còn có Hải Lan Châu cùng Na Mộc Chung là Đại Phúc tấn, cùng Ba Đặc Mã TảoBố Mộc Bố Thái đều là Trắc Phúc tấn. Sang thời Thuận Trị, trong hậu cung vẫn hay giữ kiểu gọi tương ứng Hoàng hậu (Đích Phúc tấn), Phi (Trắc Phúc tấn) và Cách cách (Thứ thiếp) mà xưng hô cùng thiết đặt đãi ngộ, không khác thời Hậu Kim. Tóm gọn lại, hậu cung triều Thuận Trị có 7 định mức, được gọi là Cấp (級), ngoài Hoàng hậu, Hoàng quý phi, PhiTần rất đặc thù, thì có 3 cấp phổ biến nhất:

  1. Phúc tấn (福晉), địa vị đặc thù, đa phần là Hậu phi xuất thân từ Mông Cổ Minh kỳ, tức là con gái Vương công Mông Cổ.
  2. Tiểu Phúc tấn (小福晉), bên trong lại có thêm 2 cấp, dành cho Hậu phi từng sinh con.
  3. Cách cách (格格), dành cho các Hậu phi thân phận thấp và chưa có con.

Thời kỳ Khang Hi ban đầu vẫn giữ đãi ngộ làm tiêu chuẩn, đa phần dựa vào số lượng lụa, gấm được cấp hàng tháng mà được xem ai trên ai dưới. Tuy nhiều hậu cung phi tần thời Khang Hi không có danh vị, nhưng đã có chế độ thiện đãi nhất định tương ứng với các danh vị chính thức. Như Tuệ phi do là Mông Cổ Minh kỳ mà nhập cung đãi ngộ Phúc tấn, sau khi chết truy tặng làm Phi, hoặc như 4 vị Phúc tấn xuất thân long trọng thời Thuận Trị là Cung Tĩnh phi, Thục Huệ phi, Đoan Thuận phiNinh Khác phi đều chỉ được tôn làm "Phi" dưới thời Khang Hi. Sau thời Khang Hi, Hậu cung chủ vị không còn được gọi là "Phúc tấn" nữa.

Tông thất thê thiếp

Từ thời Hậu Kim, ngoài Chính phi và Thứ phi của Đại hãn, thì Chính thất và Thứ thất của các thành viên Hoàng thất có tước Bối tử trở lên đều gọi chung là Phúc tấn. Tuy nhiên, thời Thanh đầu trước khi nhập quan, nam giới Mãn Châu thịnh hành kiểu [Một chồng, nhiều vợ, nhiều thiếp], nam nhân có thể dùng lễ cưới nhiều hơn 1 người vợ, song vẫn có thể nạp thật nhiều thiếp. Các vợ được cưới cùng với vợ cả thường được ghi là [Kế thê; 继妻], tiếng Việt nôm na là Vợ thứ. Văn bản Hán dịch về thời Thanh trước khi nhập quan, tuy gọi các Vợ thứ này đôi khi thành Kế Phúc tấn hoặc Trắc Phúc tấn, song có phần không chính xác với tình hình lúc đó[3].

Với chế độ này, Vợ cả và Vợ thứ trên thực tế là bình quyền (Hán ngữ gọi là Bình thê), con cái do họ sinh ra có quyền thừa kế ngang bằng. Với lý do này, rất nhiều Ngọc điệp ghi với theo kiểu ["Nhất thú Phúc tấn"; 一娶福晉] hay ["Nhị thú Phúc tấn"; 二娶福晉], như gia phả Trịnh Hiến Thân vương Tế Nhĩ Cáp Lãng. Bên cạnh đó, cũng nhiều văn bản chia các Trắc thất danh hiệu "Trắc Phúc tấn" khác với các Chính thất Phúc tấn khác, song trong nhiều trường hợp thì "Trắc Phúc tấn" có thân phận không kém gì các Chính thất Phúc tấn, đây là một biểu hiện rõ chế độ "Nhiều vợ và nhiều Thiếp" rất mạnh trong xã hội Mãn Châu khi ấy.

Căn cứ Mãn văn lão đương (满文老档) ghi nhận, thời Sùng Đức nguyên niên ra chỉ dụ:

汗之女称固伦格格,婿称固伦额驸。其和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子之女,若蒙圣汗抚养下嫁,仍称固伦格格,其婿亦称固伦额驸。和硕亲王嫡妻各一人,称和硕福晉,馀妻称少福晉;其女称和硕格格,婿称和硕额驸。多罗郡王嫡妻各一人,称多罗福晉馀妻称少福晉;其女称多罗格格,婿称多罗额驸。多罗贝勒嫡妻各一人,称多罗贝勒福晉,馀妻称少福晉,其女称多罗贝勒格格,婿称多罗贝勒额驸。固山贝子嫡妻各一人,称固山福晉,馀妻称少福晉;其女称固山格格,婿称固山额驸。凡和硕亲王、多罗郡王、多罗贝勒、固山贝子收养之女及婿,亦从其养父名之。

.

Con gái của Hãn xưng gọi Cố Luân cách cách, con rể xưng Cố Luân ngạch phò. Phàm con gái của Hòa Thạc Thân vương, Đa La Quận vương, Đa La Bối lặc hay Cố Sơn Bối tử, nhận ân thánh mà được Hãn nuôi dưỡng, cũng xưng Cố Luân cách cách, con rể tắc cũng xưng Cố Luân ngạch phò. Chính thất của Hòa Thạc Thân vương có một người, xưng Hòa Thạc Phúc tấn, các thiếp khác xưng Thiếu Phúc tấn. Con gái do đó xưng Hòa Thạc cách cách, con rể là Hòa Thạc ngạch phò. Chính thất của Đa La Quận vương chỉ một người, xưng Đa La Phúc tấn, thiếp xưng Thiếu Phúc tấn. Con gái do đó xưng Đa La cách cách, con rể xưng Đa La ngạch phò. Chính thê của Đa La Bối lặc xưng Đa La Bối lặc Phúc tấn, thiếp xưng Thiếu Phúc tấn. Con gái do đó gọi Đa La Bối lặc cách cách, con rể xưng Đa La Bối lặc ngạch phò. Chính thê của Cố Sơn Bối tử xưng Cố Sơn Phúc tấn, thiếp xưng Thiếu Phúc tấn. Con gái do đó gọi Cố Sơn cách cách, con rể xưng Cố Sơn ngạch phò.

Phàm con cái do Hòa Thạc Thân vương, Đa La Quận vương, Đa La Bối lặc hay Cố Sơn Bối tử nhận nuôi dưỡng, cũng án theo mà gọi.

— Chỉ dụ phong hiệu thời Thanh sơ - Mãn văn lão đương

Thời Thuận Trị, như đã đề cập, khi danh phận hậu cung vừa mới nhập quan cũng chưa thực sự rõ, các Hậu cung Phi tần cũng được dùng danh hiệu "Phúc tấn" để xưng hô. Chỉ cho đến hết Khang Hi, chế độ Hậu cung cũng được được kiện toàn, các danh xưng như "Phúc tấn" mới được chuyển xuống chuyên dùng cho vợ của các Hoàng tử. Theo chế độ hoàn bị từ đời Ung ChínhCàn Long trở đi, tước danh "Phúc tấn" cho Chính thất và "Trắc Phúc tấn" cho Trắc thất chỉ dùng cho những Hoàng tử chưa thụ phong hoặc Tông thất được thụ phong tước Vương, tức là [Thân vương; 親王], [Quận vương; 郡王] hoặc [Thế tử; 世子] (con cả của Thân vương). Còn như Chính thất và Trắc thất của những Tông thất từ Bối lặc trở xuống đến Trấn quốc Tướng quân, chỉ có thể dùng Phu nhân[4].

Đồng thời, Tông thất được thụ phong tước và Hoàng tử chưa được thụ phong đều không giống nhau, do đó cũng phân ra hai cách gọi của Phúc tấn, là [Hoàng tử Phúc tấn; 皇子福晉] hoặc [Mỗ vương Phúc tấn; 某王福晉] - trong đó [Mỗ] là tước hiệu của Thân vương, Quận vương ấy. Theo quy định triều Thanh, Hoàng tử dù chưa phong tước hoặc đã phong tước, đều có thân phận cao hơn những Tông thất (anh em chú bác của Hoàng đế) đã phong vì có quan hệ thân phận với Hoàng đế nhất, do đó Phúc tấn của các Hoàng tử vẫn là đứng cao hơn Phúc tấn của Thân vương khi quy định thứ tự.